Thuật ngữ “tầng lạnh” bắt nguồn từ từ ‘kryos’ trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là sương giá hoặc lạnh như băng. Tầng lạnh tác động đến mọi sinh vật sống trên hành tinh. Nó trải dài trên toàn cầu và có thể xuất hiện theo mùa hoặc có mặt vĩnh viễn ở hầu hết các nơi trên thế giới. Tuyết, sông băng, lớp băng vĩnh cửu và mặt đất đóng băng là nguồn dự trữ và nguồn nước ngọt quan trọng, duy trì hệ sinh thái và hỗ trợ sinh kế trong và ngoài các khu vực có chúng. Khoảng 70% nước ngọt trên Trái đất tồn tại dưới dạng tuyết hoặc băng.
Tất cả các sinh vật sống đều phụ thuộc trực tiếp hoặc gián tiếp vào tầng lạnh. Ví dụ, vì tất cả các con sông lớn đều bắt nguồn từ núi nên băng quyển trên núi đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp và điều tiết nguồn nước ngọt cho khoảng một nửa dân số thế giới, bao gồm cả những người sống ở vùng đất thấp, như đồng bằng sông Hằng-Brahmaputra. Hơn nữa, sự thay đổi và mất đi lượng băng tuyết quan trọng đang làm tăng nguy cơ xảy ra các mối nguy hiểm khác.
Trạng thái của tầng lạnh cũng là một chỉ số hữu ích cho sự biến đổi và thay đổi khí hậu. Việc giám sát được cải thiện là rất quan trọng để hiểu được thời tiết, khí hậu và chu trình nước của Trái đất. Tầng lạnh, những thay đổi và tác động của nó đã nhận được sự chú ý ngày càng tăng trong những năm gần đây, tạo ra nhu cầu về thông tin chính thống về tình trạng tài nguyên băng tuyết trên thế giới.
Mối liên hệ giữa tầng lạnh và biến đổi khí hậu là rất nhiều.
Báo cáo đặc biệt của Ủy ban liên chính phủ về biến đổi khí hậu (IPCC) về Đại dương và tầng băng trong điều kiện khí hậu thay đổi (SROCC) tuyên bố rằng “trong những thập kỷ qua, sự nóng lên toàn cầu đã dẫn đến sự thu hẹp trên diện rộng của tầng lạnh, với sự mất mát hàng loạt từ các tảng băng và sông băng. , giảm độ phủ tuyết, phạm vi và độ dày băng ở Biển Bắc Cực, đồng thời tăng nhiệt độ lớp băng vĩnh cửu”.
Dữ liệu tầng lạnh cũng đóng một vai trò quan trọng trong các mô hình dự báo và dự đoán. Dự báo về lượng tuyết rơi, lượng mưa rắn, lớp phủ tuyết, bão tuyết, băng giá và thời gian đóng băng và tan băng của sông, hồ, đất và băng biển là rất quan trọng đối với những người sống ở vùng khí hậu lạnh.
Mực nước biển dâng là mối quan tâm lớn đối với các vùng ven biển, đặc biệt là các khu vực đông dân cư và rất quan trọng đối với một số quốc đảo nhỏ. Mặc dù thể tích tương đương của các sông băng xét theo mực nước biển dâng toàn cầu là nhỏ (0,4 m) so với các dải băng ở Greenland (7,2 m) và Nam Cực (khoảng 58 m), sự đóng góp tương đối của chúng vào mực nước biển dâng toàn cầu gần đây đã đã lớn hơn nhiều. Sự tan chảy của sông băng và chỏm băng trong nửa sau thế kỷ 20 đã khiến mực nước biển dâng cao khoảng 2,5 cm, trái ngược với sự mất băng ở các dải băng ở Greenland và Nam Cực, khiến mực nước biển dâng thêm khoảng 1 cm.
Dữ liệu băng quyển cũng rất quan trọng để dự báo lũ lụt và quản lý tài nguyên nước cho hộ gia đình, sản xuất thủy điện, nông nghiệp (thủy lợi) và các lĩnh vực khác.
Tin vắn: Tạp chí KTTV